Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

Bác sỹ nam học và những ngày ở chiến trường

GS viem dai trang. Quán Anh cũng có nhiều năm tháng phục vụ tại các chiến trường ác liệt và là thầy giáo của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Ngoài con người của y học hiện đại, ông còn là tác giả kịch bản của bộ phim nổi tiếng "Tiền tuyến gọi".

Những cung đường lửa

GS Trần Quán Anh.

Thời chống Mỹ, GS bệnh thần kinh. Trần Quán Anh là một chàng trai trí thức Hà Nội hào hoa, gác nỗi nhớ thị thành khoác ba lô theo tiếng gọi từ tiền tuyến. Công tác tại Trường ĐH Y khoa Hà Nội và Bệnh viện Việt Đức, chuyên ngành phẫu thuật, nên ông là một trong những cán bộ thường xuyên vào các chiến trường ác liệt chi viện cho các đơn vị quân y.

Ra vào chiến trường nhiều lần, nhưng đợt đi dài ngày nhất của ông là chiến dịch Quảng Trị năm 1972. GS. Trần Quán Anh còn nhớ, lúc bắt đầu đánh chiếm thành cổ Quảng Trị, chiến công như chẻ tre, nhưng lúc địch tái chiếm Quảng Trị là giai đoạn ác liệt nhất. Đồng chí Vũ Văn Cẩn, Bộ trưởng Bộ Y tế lúc đó đồng thời là Cục trưởng Cục quân Y đã thành lập đoàn y tế vào chi viện cho chiến trường này. Đoàn có 10 bác sĩ phụ trách 10 chuyên khoa khác nhau, chủ yếu là bác sĩ ngoại khoa, gây mê hồi sức. GS. Quán Anh được cử làm trưởng đoàn, phiên hiệu là A11.

Ngày ấy, dọc đường từ miền Bắc vào đến Quảng Trị là quãng đường gian khổ, thương vong nhiều nhất. Trên đường đi, địch chặn các chốt tiếp viện, ra sức bắn phá bằng không quân. Anh em gọi thay tên các địa danh trên đường vào Quảng Trị để nói về sự hiểm nguy:  Phà Long Đại (Quảng Bình) là phà "Long Đầu", ngã tư Đất ở Quảng Trị gọi là "Ngã tư Đứt". Ở những chỗ đó, máy bay B52 dội những trận mưa bom không ngừng nghỉ. Dọc đường hành quân chủ yếu là đi bộ, tuy nhiên đoàn là "con cưng của chiến trường" nên thi thoảng được ghé nhờ xe của cán bộ cao cấp, có đoạn phải đi bằng ca nô dọc sông. Ngày đó, đoàn của GS. Quán Anh đi từ Hà Nội vào tận Quảng Trị phải mất tới 38 ngày.

Đạp xe đạp để có... đèn mổ

Ở chiến trường, công việc của các bác sĩ là không có sự lựa chọn. Họ ví như "con dao pha", việc gì cũng phải làm. GS. Quán Anh không nhớ nổi mình đã mổ bao nhiêu thương binh. Mổ não, mổ nối mạch cánh tay, mổ khâu ruột do bom bi... Điều kiện ở chiến trường khó khăn, chỉ khâu cũng không tốt như bây giờ. Thuốc gây mê, gây tê cũng thiếu thốn. Phần lớn các trường hợp bộ đội bị thương là phải khâu "sống".
 

Mổ tại trạm phẫu thuật Tiền Phương (Ảnh minh họa).

Hồi đó, để lấy ánh sáng phục vụ ca mổ, các thanh niên xung phong phải ngồi lên xe đạp đạp thật lực để lấy ánh sáng từ đèn pha của xe. Thương bệnh binh nhiều, các ca mổ được thực hiện liên miên, nhiều người đạp xe mỏi rã chân, buồn ngủ rũ mắt. Khi đó, lại phải hát, phải hô to "đạp nhanh lên" để động viên. GS. Trần Quán Anh nhớ trường hợp một người chồng hối hả đạp xe để ông mổ cho người vợ, bị thủng 40 lỗ ở ruột non! Ca mổ lâu đến nỗi người chồng cứ ngủ gà, ngủ gật, các bác sĩ phải gọi để tỉnh táo soi đèn. Các ca phẫu thuật chủ yếu được thực hiện dưới lòng đất để tránh bom, ở đó không thể dùng đèn dầu vì hầm nhiều khí mê tan, dễ gây nổ, phải chọn giải pháp dùng đèn xe đạp. 

Một kỷ niệm không thể quên với GS. Trần Quán Anh là một đêm mưa gió ở chiến trường B5 (Quảng Trị). Đêm đó, chiếc xe chở đoàn lao xuống bãi bom bi nổ chậm nhưng may mắn thoát chết. Có lần, GS. Quán Anh và một số bác sĩ khác vừa ra khỏi khu hầm nội khoa đã nghe "bùm" một tiếng. Hầm nội khoa bị trúng bom! "Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Nhưng khi ở chiến trường, chẳng ai nghĩ đến sự sống hay cái chết. Chỉ mong sao cứu sống được thương bệnh binh mà thôi"- GS. Quán Anh nói.

Sức sống của dân tộc ở trong tim

Gần một năm trời, GS. Quán Anh cùng đoàn công tác phục vụ ở  đơn vị quân y tại bờ Bắc và bờ Nam sông Bến Hải, thuộc địa phận huyện  Do Linh, Cam Lộ (Quảng Trị). Máy bay B52 ném bom liên miên, nên các bác sĩ ăn, ngủ, mổ cho thương binh chủ yếu ở dưới địa đạo. Địa đạo sâu, có 2 tầng, cách mặt đất 6-7m, tầng sâu nhất gần 20m. Họ trổ thành những phòng cho thương binh nằm. Ngày đó, chiến dịch ác liệt nhất, có những lúc thương binh về một lượt 1.500 người. Có bác sĩ đứng 7 ngày 7 đêm liền, mặc quần đùi, đi ủng để mổ cho thương binh. Thuốc điều trị vô cùng thiếu, điều kiện vô trùng hạn chế nên không tránh khỏi nhiễm trùng.
 

Đoàn bác sỹ BV Việt Đức và Đại học Y Hà Nội chi viện cho chiến trường miền Nam (Ảnh tư liệu).

8 tháng trời, khẩu phần ăn của bác sĩ mỗi ngày chỉ là 1 lon gạo. Đoàn có 10 bác sĩ nhưng có bữa chỉ được phát 7 miếng tóp mỡ cháy đen, chưng với nước, muối, mì chính để ăn cùng với cơm. "Nếu như chiến trường Tây Nguyên thiếu muối thì chiến trường Quảng Trị thiếu rau. Thiếu đến mức phải vặt lá khế để ăn, vớ được thân cây chuối thì nhai lấy nhai để. Cuộc sống dưới địa đạo không phân biệt được đêm hay ngày. Nhưng chẳng ai nản lòng!"- GS. Trần Quán Anh nói.

Những ngày này, cả nước sôi động kỷ niệm 35 năm thống nhất đất nước, GS. Quán Anh tự hào vì mình cũng đã được sống và làm việc trong những ngày đáng nhớ. Ở tuổi 73, ông vui vẻ đùa: "Tại sao ngày ấy mình không chết, sao mình có thể sống vui vẻ, chịu đựng được như thế? Có lẽ, đó là vì sức sống của đồng đội, sức sống của dân tộc đang chảy trong tim của mỗi người, nên đối với những người như chúng tôi, sự sống và cái chết khi đó không phải là điều quan trọng!" viem dai trang.
 
Hoài Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét